Q - Tyta
Dạng bào chế:Viên hoàn cứng
Đóng gói:Hộp 10 gói x 5g
Thành phần:
SĐK:VD-32701-19
Nhà sản xuất: | Công ty cổ phần công nghệ cao Traphaco - VIỆT NAM | Estore> | |
Nhà đăng ký: | Công ty cổ phần TRAPHACO | Estore> | |
Nhà phân phối: | Estore> |
Thông tin thành phần Long nhãn
Long nhãn là cùi của quả cây nhãn, cây cao 5-7m. Lá rườm rà, vỏ cây xù xì, sắc xám, nhiều cành, nhiều lá um tùm, xanh tươi luôn, không hay héo và rụng như lá các cây khác. Lá kép hình lông chim, mọc so le gồm 5 – 9 lá chét hẹp dài 7-20cm, rộng 2,5 – 5cm. Mùa xuân vào các tháng 2 – 3 – 4 có hoa màu vàng nhạt, mọc thành chùm ở đầu cành hay kẽ lá, đài 5 – 6 răng, tràng 5 – 6, nhị 6 – 10, bầu 2 – 3 ô. Quả có vỏ ngoài màu vàng xám, hầu như nhãn (chỉ có một ô của bầu phát triển thành quả, các ô kia tiêu giảm đi). Hạt đen nhánh có áo hạt trắng bao bọc.
Mô tả Dược liệu
Vị thuốc Long nhãn là cùi quả nhãn, thường dày mỏng không đều, rách nứt theo thớ dọc, màu vàng cánh gián hay màu nâu, trong mờ, một mặt nhăn không phẳng, một mặt sáng bóng, có vân dọc nhỏ, thường thấy cùi kết dính (dài 1,5 cm, rộng 2-4 cm, dầy chừng 0,1 cm). Thể chất mềm nhuận, dẻo dai, sờ không dính tay. Mùi thơm nhẹ, vị ngọt đậm.
Bộ phận dùng: Vị thuốc là áo hạt (thường gọi là cùi) đã chế biến khô của quả cây Nhãn (Arillus Longanae).
Phân bố: Ở Việt Nam đâu cũng có nhãn, nhưng nhiều và quý nhất là nhãn Hưng Yên.
Thu hái:
Mùa hạ, thu, hái quả nhãn đã chín, cùi dày, ráo nước đem phơi nắng to hoặc sấy nhẹ ở nhiệt độ 40-50oC đến khi lắc quả có tiếng kêu lóc cóc, mang ra bóc vỏ, lấy cùi đã nhăn vàng, rồi sấy ở 50 – 60oC đến khi nắm mật không dính tay (độ ẩm dược liệu dưới 18%) thì bỏ ra, tách rời từng cùi một. Chú ý giữ vệ sinh khi bóc cùi và khi sấy, phơi. Chùm quả trước khi phơi hoặc sấy có thể nhúng nước sôi 1-2 phút.
Thành phần hoá học:
- Cùi nhãn khi tươi có 77,15% nước, độ tro 0,01%, chất béo 0,13%, protid 1,47%, hợp chất có nitơ tan trong nước 20,55%, đường sacarose 12,25%, vitamin A và B.
- Cùi khô (Long nhãn nhục) chứa 0,85% nước, chất tan trong nước 79,77%, chất không tan trong nước 19,39%, độ tro 3,36%. Trong phần tan trong nước có glucose 26,91%, sacarose 0,22%, acid taetric 1,26%. Chất có nitơ 6,309%.
- Hạt nhãn chứa tinh bột, saponin, chất béo và tanin.
- Trong chất béo có các acid xyclopropanoid và acid dihydrosterculic C19H36O2 khoảng 17,4% (C.A 1969, 71, 103424m). Hạt nhãn cạo bỏ lớp vỏ đen, thái mỏng tán bột rắc lên những vết thương chảy máu, hoặc trộn với dầu bôi lên nơi bị bỏng.
- Trong lá nhãn có quexitrin, quexitin, tanin (C.A. 1949, 43, 8611 8611c), ngoài ra còn có b -sitosterol, epifriendelanol C30H52O friedelin C30H50O và 16-hentriacontanol (C.A. 1972, 76, 11978v). Lá nhãn có vị nhạt, tính bình, có tác dụng chữa cảm mạo với liều 10 – 15g dưới dạng thuốc sắc.
Bổ ích tâm tỳ, dưỡng huyết, an thần.
Làm thuốc bổ, trị chứng trí nhớ bị sút kém, hay quên, mất ngủ, hay hốt hoảng, tâm thần hồi hộp mệt mỏi, thiếu máu.
Ngày dùng 9 – 18g. Dạng thuốc sắc hay cao lỏng.
Bài thuốc
1. Chữa các triệu chứng kém ăn, mất ngủ, mồ hôi trộm, mệt nhọc: Cao ban long và long nhãn (đơn thuốc của Hải Thượng Lãn Ông). Còn có tên là nhị long ẩm: Cao ban long 40g, long nhãn 50g. Sắc long nhãn với nước. Thái nhỏ cao ban long cho vào nước sắc long nhãn. Đun nóng để hòa tan. Để nguội, thái thành từng miếng mỏng. Trước khi đi ngủ tối và sáng sớm uống mỗi lần 10g cao này.
2. Chữa các chứng do tư lự quá độ, buồn bực không ngủ hay quên: Bài quy tỳ: Nhân sâm 10g, Bạch truật 12g, hoàng kỳ12g, long nhãn 12g, toan táo nhân 12g, Phục thần 12g, viễn trí 8g, mộc hương 6g, Cam thảo 8g. Sắc uống ngày một thang chia 2-3 lần, uống khi thuốc còn ấm.
3. Bổ huyết, kiện tỳ, dưỡng tâm, an thần: Dùng cháo long nhãn cho người huyết hư Long nhãn 16g, Đại táo 15g, Ngạnh mễ (gạo tẻ) 100g nấu cháo ăn thường xuyên mỗi ngày một thang, ăn liên tục vài ba tuần.
4. Tác dụng ích khí huyết, bổ thận âm: Dùng Long nhãn 16g, Hoài sơn 16g, Giáp ngư 500g. Giáp ngư mổ bỏ ruột, cắt thành miếng rồi đem hầm với 2 vị thuốc trên, khi chín nhừ nêm gia vị vào, ăn thịt và uống nước.
5. Bổ ích khí huyết, dưỡng tâm an thần: Long nhãn tươi 300g, đường kính trắng 500g, hai thứ bỏ vào chưng kỹ, để nguội cho vào lọ kín. Mỗi lần ăn 12-16g, ngày 2 lần.
6. Bổ huyết, điều trị chứng thiếu máu, cơ thể suy nhược, thể trạng mệt mỏi, đoản hơi: Long nhãn 16g, đương quy 12g, hoàng kỳ 12g, Thục địa 16g. Sắc uống ngày một thang, chia 2 lần, uống ấm.
7. Tác dụng an thần, ích trí, trị chứng mất ngủ, trí nhớ suy giảm, hay quên, lo nghĩ quá nhiều dẫn đến tâm hồi hộp, loạn nhịp, hoa mắt, chóng mặt: Dùng Long nhãn 16g, Câu đằng 12g, Toan táo nhân 10g, Thục địa 16g.
8. Trường hợp tỳ hư, ăn uống tiêu hóa kém, không ngon miệng: Dùng Bạch truật 12g, Hoài sơn 12g, Long nhãn 12g, Ý dĩ nhân 10g, Liên nhục 10g, Phục thần 12g, Cam thảo 8g. Sắc uống ngày 1 thang.
Bên ngoài cảm mạo, bên trong uất hoả, đầy bụng, ăn uống đình trệ, cấm dùng.
Thông tin thành phần Đại táo
Mô tả:
Giới thiệu: Là cây vừa hoặc cao, có thể cao đến 10m. Lá mọc so le, lá kèm thường biến thành gai, cuống ngắn 0,5-1cm, phiến lá hình trứng dài 3-7cm, rộng 2-3,5cm, mép có răng cưa thô, trên mặt rõ 3 gân chính, gân phụ cũng nổi rõ. Hoa nhỏ, mọc thành tán ở kẽ lá, mỗi tán gồm 7-8 hoa. Cánh hoa mầu vàng, xanh nhạt. Quả hình cầu hoặc hình trứng, khi còn xanh mầu nâu nhạt hoặc xanh nhạt, khi chín mầu đỏ sẫm. Mùa hoa tháng 4-5, mùa quả tháng 7-9.
Hiện nay ở miền Bắc nước ta, cây đã được đem trồng nhiều nơi, đang phát triển mạnh, phổ biển trồng bằng chiết cành vào mùa xuân.
Thu hái: Vào mùa thu đông, khi quả chín, phơi sấy khô làm thuốc.
Mô tả dược liệu: Quả khô hình viên chùy, dài chừng 18mm - 32mm, thô chừng 15 - 18mm. Bên ngoài có màu đỏ nâu hoặc nâu tím. Có trái có vết nhăn nheo rất sâu, cuối quả có lõm vào, có vết cuống quả hoặc vết sẹo hình tròn. Chất mềm mà nhẹ, bên ngoài vỏ quả mỏng, nhăn rúm, chất thịt màu nâu nhạt, có dầu dẻo. Hạt quả hai đầu nhọn, vỏ cứng, đập ra có nhân cứng màu trắng.
Tính vị: Vị ngọt, tính bình
Quy kinh: Vào kinh tỳ, vị
Thành phần hoá học: Carbohydrat, protid, chất béo, vitamin C, chất khoáng.
Kiện tỳ, ích khí, dưỡng vị sinh tân dịch, điều hoà dinh vệ, hoà giải các vị thuốc khác.
Chữa lo âu, mất ngủ, tỳ vị hư nhược.
Ngày 10 - 30g (3 - 10 quả), thường phối hợp trong các bài thuốc bổ, sắc hoặc ngâm rượu uống.
Bài thuốc:
- Đại táo thang (thang táo tầu)
Táo tầu 15 quả, rửa sạch, ngâm nước 1 giờ, đun nhỏ lửa cho nhừ. Uống ngày ba lần, mỗi lần 1 thang. 7 ngày là một liệu trình.
Dùng cho người tỳ hư khí nhược, không thiết ăn uống, khí hư huyết hư, phát ban (âm ban) do tỳ hư không có khả năng hút huyết. Hiện nay thường dùng nhiều cho bệnh tử điếu có tính chất phản ứng biến thái. Dương ban không nên dùng.
- Đại táo trần bì trúc diệp thang ( thang đại táo trần bì lá tre)
Táo tầu 5 quả
Trần bì 5g
Lá tre 7g
Sắc 3 vị trên lấy nước. Uống ngày 1 thay chia 2 lần. Dùng liền 3 đến 5 thang.
Dùng cho trẻ em bị cam dãi.
- Hồng táo trà (trà táo tầu)
Táo tầu 3-5 quả
Dùng dao khia nát, bỏ vào cốc trà, rót nước sôi vào ủ, uống thang trà. Dùng cho bệnh cơ tim.
- Hồng táo hắc đậu hoàng kỳ thang (thang táo tầu, đậu đen, hoàng kỳ)
Táo tầu 20 quả
Đậu đen 60g
Hoàng kỳ 30g
Rửa sạch sắc uống ngày 1 thang chia hai lần. Dùng cho người khí hư, tự đổ mồ hôi.
- Táo khương trà (trà gừng táo tầu)
Táo tầu (sấy khô bỏ hạt) 50g
Gừng tươi 50g
Cam thảo 6g
Sắc chung ba vị, lọc bã. uống thay trà.
Dùng cho người doanh vệ thất hoà, vị khí hư nhược dẫn tới thể hư lực kém dễ cảm cúm, thường xuất hiện các chứng chảy nước mắt nước mũi, dòm dài rất nhiều, thanh khiếu bất lợi.
- Hồng táo nọa mễ hắc đậu chúc (cháo đậu đen, gạo nếp, táo tầu)
Gạo nếp 100g
Táo tầu 30g
Đậu đen 30g
Nấu 3 vị trên đây thành cháo theo cách thông thường, cho thêm đường đỏ vào, ăn ngày 2 lần tuỳ ý.
Dùng cho trẻ em thiếu máu dưới dạng thiếu sắt trong máu.
- Đại táo dương cốt chúc (Cháo táo tầu, xương dê)
Đại táo 20 quả
Xương cổ dê 1 – 2 chiếc
Gạo nếp 50 – 100g
Muối ăn vừa phải.
Xương dê đem đập vỡ ra, đại táo bỏ hạt, nấu với gạo nếp thành cháo, cho thêm muối điều vị. Ăn lúc nóng vào buổi sớm và buổi tối.
Dùng cho người thiếu máu do máu tái sinh khó mắc bệnh tử điếu thiểu và các chứng thiếu khí huyết khác.
Đầy bụng, có đàm thấp, thấp nhiệt không dùng
Lưu ý: Dùng thuốc theo chỉ định của Bác sĩ