Angeliq

Nhóm thuốc: Hocmon, Nội tiết tố
Dạng bào chế:Viên nén bao phim
Thành phần:
Estradiol 1mg; Drospirenone 2mg
SĐK:VN-19015-15
Nhà sản xuất: | Bayer Weimar GmbH und Co. KG - ĐỨC | Estore> | |
Nhà đăng ký: | Bayer South East Asia Pte., Ltd | Estore> | |
Nhà phân phối: | Estore> |
Chỉ định:
Trong liệu pháp thay thế hormon (HRT) để điều trị hội chứng mãn kinh ở phụ nữ sau mãn kinh bao gồm: các triệu chứng vận mạch (như đỏ bừng mặt, toát mồ hôi), mất ngủ, trầm uất, kích thích thần kinh, tình trạng teo niệu-sinh dục gây ra bởi sự thiếu hụt sản xuất estrogen nội sinh do quá trình mãn kinh tự nhiên, thiểu năng tuyến sinh dục, cắt buồng trứng hoặc trong trường hợp suy buồng trứng nguyên phát ở những phụ nữ có tử cung còn nguyên vẹn.
Thuốc được chỉ định trong trường hợp ngăn ngừa chứng loãng xương sau mãn kinh.
Liều lượng - Cách dùng
Bắt đầu sử dụng thuốc: Đối với những phụ nữ không sử dụng estrogen hoặc những phụ nữ chuyển từ các chế phẩm tránh thai kết hợp liên tục có thể bắt đầu điều trị với thuốc bất cứ lúc nào. Đối với những phụ nữ chuyển từ liệu pháp thay thế hormon liên tục hoặc theo chu kỳ nên hoàn thành hết chu kỳ điều trị hiện tại trước khi bắt đầu điều trị với thuốc.
Liều lượng: Mỗi ngày uống 1 viên thuốc.
Cách dùng: Mỗi vỉ thuốc có 28 viên dùng cho 28 ngày điều trị. Sử dụng thuốc liên tục, có nghĩa là uống ngay vỉ thuốc tiếp theo ngay khi kết thúc vỉ thuốc trước mà không có ngày ngừng uống thuốc. Nuốt nguyên viên thuốc kèm theo một ít nước sau khi đã ăn hoặc chưa ăn. Tốt nhất nên uống thuốc vào một thời điểm cố định hàng ngày.
Trường hợp quên uống thuốc: Trong trường hợp quên uống thuốc, cần uống ngay viên thuốc quên đó càng sớm càng tốt. Nếu thời gian quên uống thuốc quá 24 giờ, không uống viên thuốc đã quên. Nếu quên uống vài viên thuốc, hiện tượng chảy máu kinh nguyệt bất thường có thể xảy ra.
Quá liều
Các nghiên cứu về tình trạng nhiễm độc cấp đã cho thấy rằng các nguy cơ nhiễm độc cấp gần như không xảy ra trong trường hợp uống thuốc sai chỉ dẫn hoặc uống thuốc quá liều. Các nghiên cứu lâm sàng cũng cho thấy việc sử dụng liều lên tới 100mg drospirenone và liều sử dụng chế phẩm estrogen/progestogen kết hợp có chứa 4mg estradiol hoàn toàn dung nạp tốt.
Ở một số phụ nữ uống thuốc quá liều có thể gây buồn nôn, nôn và chảy máu bất thường. Hiện không có thuốc giải độc đặc hiệu và chủ yếu là điều trị triệu chứng.
Chống chỉ định:
Không sử dụng liệu pháp thay thế hormone (HRT) khi mắc bất cứ tình trạng nào dưới đây. Nếu xuất hiện bất cứ tình trạng nào dưới đây trong thời gian sử dụng HRT thì nên ngừng thuốc ngay lập tức:
- Chảy máu âm đạo bất thường không rõ nguyên nhân.
- Ung thư vú hoặc nghi bị ung thư vú.
- Có mắc hoặc nghi ngờ mắc các bệnh ung thư hoặc tiền ung thư có liên quan đến hormon sinh dục.
- Đã bị hay đang bị u gan (lành tính hoặc ác tính)
- Mắc bệnh gan trầm trọng
- Đã hoặc đang mắc bệnh thận trầm trọng và các thông số đánh giá chức năng thận chưa trở lại bình thường
- Nghẽn mạch huyết khối động mạch cấp tính (ví dụ: nhồi máu cơ tim, đột quỵ)
- Nghẽn mạch huyết khối tĩnh mạch sâu đang tiến triển, rối loạn nghẽn mạch huyết khối hoặc ghi nhận có tiền sử mắc các chứng bệnh này
- Có triglyceride trong máu cao
- Phụ nữ có thai hoặc trong thời gian cho con bú
- Mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc.
- Chảy máu âm đạo bất thường không rõ nguyên nhân.
- Ung thư vú hoặc nghi bị ung thư vú.
- Có mắc hoặc nghi ngờ mắc các bệnh ung thư hoặc tiền ung thư có liên quan đến hormon sinh dục.
- Đã bị hay đang bị u gan (lành tính hoặc ác tính)
- Mắc bệnh gan trầm trọng
- Đã hoặc đang mắc bệnh thận trầm trọng và các thông số đánh giá chức năng thận chưa trở lại bình thường
- Nghẽn mạch huyết khối động mạch cấp tính (ví dụ: nhồi máu cơ tim, đột quỵ)
- Nghẽn mạch huyết khối tĩnh mạch sâu đang tiến triển, rối loạn nghẽn mạch huyết khối hoặc ghi nhận có tiền sử mắc các chứng bệnh này
- Có triglyceride trong máu cao
- Phụ nữ có thai hoặc trong thời gian cho con bú
- Mẫn cảm với bất cứ thành phần nào của thuốc.
Tương tác thuốc:
- Tác dụng của các thuốc khác với thuốc:
Độ thanh thải của các hormon sinh dục tăng lên do hiện tượng cảm ứng các men gan làm giảm hiệu quả lâm sàng của thuốc và thậm chí gây ra chảy máu bất thường. Các thuốc gây cảm ứng men gan bao gồm hydantoins, barbiturates, primodone, carbamazepine và rifampicin, ngoài ra còn có thể bao gồm oxcarbazepine, topiramate, felbamate và griseofulvin. Cơ chế của tương tác thuốc là do các thuốc này gây cảm ứng các men gan. Hiện tượng cảm ứng men lớn nhất của các thuốc này chỉ được nhận thấy sau 2 đến 3 tuần và có thể kéo dài đến 4 tuần sau khi ngừng sử dụng các thuốc nói trên.
Trong một số hiếm các trường hợp, nồng độ estradiol bị giảm xuống khi sử dụng đồng thời một số thuốc kháng sinh (ví dụ penicillin hoặc tetracycline).
Hệ cytochrome P 450 không ảnh hưởng tới chuyển hóa drospirenone. Do đó, những thuốc ức chế hệ enzyme này hầu như không ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của drospirenone. Tuy nhiên, các thuốc ức chế CYP3A4, như cimetidine, ketoconazole và các thuốc khác có thể ức chế sự chuyển hóa estradiol.
- Tương tác với rượu: Uống rượu trong thời gian điều trị với HRT có thể làm tăng lượng estradiol trong tuần hoàn.
- Tương tác thuốc với các thuốc khác: Theo các nghiên cứu ức chế trên invitro và tương tác trên invivo ở một số phụ nữ tình nguyện có sử dụng liều ổn định drospirenone 3mg/ngày và omeprazole, simvastatin, hoặc midazolam làm chất nền, sự tương tác của drospirenone với enzyme cytochrome P450 điều hòa chuyển hóa đến các thuốc khác hầu như không xảy ra.
- Tương tác dược lực học với thuốc hạ huyết áp và thuốc chống viêm không steroid (NSAID)
Sử dụng đồng thời thuốc với thuốc hạ huyết áp như thuốc ức chế men chuyển (ACE), chất đối vận thụ thể angiotensin II, và hydrochlorothiazide có thể làm tăng thêm tác dụng hạ huyết áp của các thuốc hạ huyết áp.
Sử dụng kết hợp thuốc và NSAID hoặc thuốc hạ huyết áp hầu như không làm tăng kali trong máu. Sử dụng đồng thời 3 loại thuốc này có thể gây tăng nhẹ lượng kali trong máu đặc biệt đối với những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường.
- Tương tác với các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng: Sử dụng các thuốc chứa steroid sinh dục có thể ảnh hưởng tới kết quả một số xét nghiệm bao gồm xét nghiệm sinh hóa gan, tuyến giáp, tuyến thượng thận và chức năng thận, tới nồng độ của các protein (protein vận chuyển) trong huyết tương như các globulin gắn kết với hormon sinh dục, sự phân chia lipid/lipoprotein, các chỉ số về đông máu và tiêu hủy Fibrin. Nhìn chung những thay đổi này vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Sử dụng thuốc không ảnh hưởng tới sự dung nạp glucose.
Độ thanh thải của các hormon sinh dục tăng lên do hiện tượng cảm ứng các men gan làm giảm hiệu quả lâm sàng của thuốc và thậm chí gây ra chảy máu bất thường. Các thuốc gây cảm ứng men gan bao gồm hydantoins, barbiturates, primodone, carbamazepine và rifampicin, ngoài ra còn có thể bao gồm oxcarbazepine, topiramate, felbamate và griseofulvin. Cơ chế của tương tác thuốc là do các thuốc này gây cảm ứng các men gan. Hiện tượng cảm ứng men lớn nhất của các thuốc này chỉ được nhận thấy sau 2 đến 3 tuần và có thể kéo dài đến 4 tuần sau khi ngừng sử dụng các thuốc nói trên.
Trong một số hiếm các trường hợp, nồng độ estradiol bị giảm xuống khi sử dụng đồng thời một số thuốc kháng sinh (ví dụ penicillin hoặc tetracycline).
Hệ cytochrome P 450 không ảnh hưởng tới chuyển hóa drospirenone. Do đó, những thuốc ức chế hệ enzyme này hầu như không ảnh hưởng đến sự chuyển hóa của drospirenone. Tuy nhiên, các thuốc ức chế CYP3A4, như cimetidine, ketoconazole và các thuốc khác có thể ức chế sự chuyển hóa estradiol.
- Tương tác với rượu: Uống rượu trong thời gian điều trị với HRT có thể làm tăng lượng estradiol trong tuần hoàn.
- Tương tác thuốc với các thuốc khác: Theo các nghiên cứu ức chế trên invitro và tương tác trên invivo ở một số phụ nữ tình nguyện có sử dụng liều ổn định drospirenone 3mg/ngày và omeprazole, simvastatin, hoặc midazolam làm chất nền, sự tương tác của drospirenone với enzyme cytochrome P450 điều hòa chuyển hóa đến các thuốc khác hầu như không xảy ra.
- Tương tác dược lực học với thuốc hạ huyết áp và thuốc chống viêm không steroid (NSAID)
Sử dụng đồng thời thuốc với thuốc hạ huyết áp như thuốc ức chế men chuyển (ACE), chất đối vận thụ thể angiotensin II, và hydrochlorothiazide có thể làm tăng thêm tác dụng hạ huyết áp của các thuốc hạ huyết áp.
Sử dụng kết hợp thuốc và NSAID hoặc thuốc hạ huyết áp hầu như không làm tăng kali trong máu. Sử dụng đồng thời 3 loại thuốc này có thể gây tăng nhẹ lượng kali trong máu đặc biệt đối với những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường.
- Tương tác với các kết quả xét nghiệm cận lâm sàng: Sử dụng các thuốc chứa steroid sinh dục có thể ảnh hưởng tới kết quả một số xét nghiệm bao gồm xét nghiệm sinh hóa gan, tuyến giáp, tuyến thượng thận và chức năng thận, tới nồng độ của các protein (protein vận chuyển) trong huyết tương như các globulin gắn kết với hormon sinh dục, sự phân chia lipid/lipoprotein, các chỉ số về đông máu và tiêu hủy Fibrin. Nhìn chung những thay đổi này vẫn nằm trong giới hạn bình thường. Sử dụng thuốc không ảnh hưởng tới sự dung nạp glucose.
Tác dụng phụ:
Trầm cảm, dễ xúc động, bồn chồn
Đau đầu.
Đau bụng, buồn nôn, chướng bụng.
U lành tính ở vú, to vú, làm phát triển khối u xơ tử cung, u lành tính ở cổ tử cung, rối loạn kinh nguyệt, thay đổi ở bộ phận sinh dục.
Suy nhược, phù cục bộ
Đau đầu.
Đau bụng, buồn nôn, chướng bụng.
U lành tính ở vú, to vú, làm phát triển khối u xơ tử cung, u lành tính ở cổ tử cung, rối loạn kinh nguyệt, thay đổi ở bộ phận sinh dục.
Suy nhược, phù cục bộ
Chú ý đề phòng:
Trước khi bắt đầu điều trị, cần cân nhắc các tình trạng và nguy cơ được liệt kê dưới đây để quyết định về lợi ích cũng như rủi ro khi điều trị cho bệnh nhân.
Trong quá trình sử dụng liệu pháp thay thế hormone, nếu phát hiện ra bất kỳ một tình trạng nào nằm trong mục "Chống chỉ định" hoặc tình trạng liệt kê dưới đây thì nên ngừng thuốc ngay lập tức:
- Đau nửa đầu hoặc đau đầu thường xuyên hoặc dữ dội bất thường trong thời gian đầu điều trị, hoặc các tiền triệu của tắc mạch máu não.
- Tái phát bệnh vàng da hoặc bệnh ngứa do tắc mật, mà các tình trạng này đã xuất hiện trong lần mang thai đầu tiên hoặc khi sử dụng các steroid sinh dục trước đây.
- Có hoặc nghi ngờ có các triệu chứng của bệnh huyết khối.
Trong trường hợp các tình trạng hoặc yếu tố nguy cơ dưới đây mới xuất hiện hoặc nặng hơn thì nên phân tích lợi ích và rủi ro của từng người, cân nhắc tới sự cần thiết phải ngừng sử dụng liệu pháp:
* Nghẽn mạch huyết khối tĩnh mạch: Cả nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát và nghiên cứu dịch tễ học đều gợi ý mối liên quan đến nguy cơ làm nặng hơn bệnh nghẽn mạch huyết khối tĩnh mạch (VTE), ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc tắc mạch phổi.
* Huyết khối động mạch: Hai nghiên cứu lâm sàng lớn đã được tiến hành khi sử dụng kết hợp equine estrogen liên hợp (CEE) và medroxyprogesterone (MPA) cho thấy có nguy cơ nặng thêm bệnh mạch vành (CHD) trong năm đầu tiên sử dụng. Nghiên cứu lâm sàng khi sử dụng CEE đơn thuần cho thấy khả năng giảm tỉ lệ CHD ở phụ nữ trong độ tuổi từ 50-59, ngoài ra không có lợi ích tổng quát gì trong tổng số người tham gia thử nghiệm. Một kết quả khác thu được sau hai nghiên cứu lâm sàng với CEE đơn thuần và CEE khi dùng kết hợp với MPA cho thấy nguy cơ đột quỵ tăng từ 30% đến 40%. Những phát hiện này liệu có liên quan tới các sản phẩm HRT khác hoặc các đường dùng khác của liệu pháp hiện chưa được xác định.
* Các bệnh liên quan đến túi mật: Estrogen được cho là làm tăng nguy cơ hình thành sỏi mật. Một số phụ nữ có khả năng mắc các bệnh về túi mật trong thời gian sử dụng liệu pháp estrogen.
* Chứng mất trí: Có rất ít các bằng chứng từ các nghiên cứu lâm sàng với các chế phẩm có chứa CEE về khả năng làm tăng nguy cơ mất trí nếu bắt đầu sử dụng liệu pháp hormon ở những phụ nữ trên 65 tuổi. Theo một số nghiên cứu khác, nguy cơ này có thể giảm xuống nếu bắt đầu điều trị trong giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh. Liệu những phát hiện này có liên quan tới các chế phẩm thay thế hormon khác hay không vẫn chưa xác định được.
Các khối u
Ung thư vú
Theo các nghiên cứu lâm sàng và kết quả thu được cho thấy nguy cơ ung thư vú được chẩn đoán tăng lên ở những phụ nữ đã sử dụng HRT trong vài năm. Đánh giá tổng quát mối liên hệ về nguy cơ đối với những trường hợp ung thu vú được chẩn đoán qua hơn 50 nghiên cứu dịch tễ học, phần lớn các nghiên cứu được ghi nhận ở yếu tố 1 và 2. Nguy cơ ung thư vú có liên quan đến việc dùng thuốc tăng lên theo thời gian điều trị và có thể thấp hơn hoặc không tăng nếu điều trị bằng các sản phẩm chỉ chứa estrogen.
Hai nghiên cứu lớn, ngẫu nhiên đối với CEE đơn thuần hoặc kết hợp với MPA cho thấy nguy cơ này tương ứng là khoảng 0,77 (95% Cl: 0,59-1,01) hoặc 1,24 (95% Cl: 1,01-1,54) sau 6 năm sử dụng HRT. Người ta cũng chưa xác định được liệu sự gia tăng nguy cơ này có xảy ra đối với các sản phẩm HRT khác hay không.
Nguy cơ tăng lên này sẽ mất đi trong một vài năm sau khi ngưng sử dụng HRT.
Hầu hết các nghiên cứu đều báo cáo rằng các khối u được xác định ở những bệnh nhân đang sử dụng hoặc vừa sử dụng HRT có tiên lượng tốt hơn nhiều so với những người không sử dụng liệu pháp này. Các số liệu về hiện tượng di căn ra ngoài tuyến vú chưa được kết luận.
HRT làm tăng mật độ của hình ảnh chụp X quang tuyến vú. Trong một vài trường hợp, điều này có thể làm ảnh hưởng đến sự phát hiện ung thư vú bằng phương pháp chụp X quang.
Ung thư nội mạc tử cung:
Sử dụng lâu dài estrogen đơn thuần có thể làm gia tăng nguy cơ tăng sinh nội mạc tử cung hoặc ung thư nội mạc tử cung. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng khi điều trị kết hợp với progestogen sẽ làm giảm nguy cơ này. Đồng thời sử dụng kết hợp với drospirenone sẽ ngăn chặn sự tăng sinh nội mạc tử cung gây ra bởi estrogen.
U gan
Trong một số hiếm trường hợp, xuất hiện u gan lành tính và hiếm hơn nữa là u gan ác tính cũng đã được báo cáo sau khi sử dụng các hợp chất hormone tương tự như các hợp chất có trong HRT. Trong một số ít trường hợp có thể xảy ra xuất huyết nặng trong ổ bụng đe doạ đến tính mạng của bệnh nhân.
Các triệu chứng khác:
Mối liên hệ giữa việc sử dụng HRT và bệnh tăng huyết áp trên lâm sàng chưa được xác định. Hiện tượng tăng nhẹ huyết áp ở những phụ nữ sử dụng HRT cũng đã được báo cáo, hiếm khi có biểu hiện trên lâm sàng. Tuy nhiên, nếu trong một số trường hợp các dấu hiệu tăng huyết áp trên lâm sàng kéo dài liên tục trong thời gian sử dụng HRT, cần cân nhắc đến việc ngừng sử dụng thuốc.
thuốc có thể gây hạ huyết áp ở những phụ nữ có huyết áp cao. Đối với những phụ nữ có huyết áp bình thường, sự thay đổi huyết áp hầu như không xảy ra.
Khả năng bài tiết kali có thể bị giới hạn đối với các bệnh nhân suy thận. Trong các nghiên cứu lâm sàng khi điều trị với drospirenone (DRSP) cho thấy không có ảnh hưởng tới nồng độ kali trong huyết tương ở những bệnh nhân suy thận nhẹ và vừa. Nguy cơ tăng kali huyết trên lý thuyết chỉ có thể được phát hiện ở những bệnh nhân đã từng điều trị kali huyết ở mức độ cao và những bệnh nhân đang sử dụng thêm thuốc bổ sung kali.
Các rối loạn chức năng gan không trầm trọng, bao gồm tăng bilirubin trong máu như hội chứng Dubin-Johnson hoặc hội chứng Rotor, cần phải theo dõi chặt chẽ và kiểm tra chức năng gan định kỳ. Trong trường hợp các chỉ số đánh giá chức năng gan tăng lên, nên ngưng sử dụng HRT.
Cần đặc biệt theo dõi những phụ nữ có chỉ số triglyceride tăng ở mức độ vừa phải. Việc sử dụng HRT đối những phụ nữ này có thể làm tăng thêm chỉ số triglyceride, có thể gây nên nguy cơ viêm tuỵ cấp.
Mặc dù sử dụng HRT có thể ảnh hưởng đến sự kháng lại insulin ở ngoại vi và độ dung nạp glucose nhìn chung không cần điều chỉnh liều dùng của các thuốc điều trị tiểu đường trong thời gian sử dụng HRT. Tuy nhiên những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường cần được theo dõi cẩn thận trong thời gian sử dụng HRT.
Một số trường hợp nhất định có thể xuất hiện dấu hiệu kích thích hệ estrogenic trong thời gian sử dụng HRT như chảy máu tử cung bất thường. Chảy máu âm đạo bất thường thường xuyên hoặc dai dẳng trong quá trình điều trị có thể là một dấu hiệu để đánh giá tình trạng nội mạc tử cung.
Kích thước u xơ tử cung (u cơ) có thể tăng lên do sự ảnh hưởng của estrogen. Nếu xuất hiện dấu hiệu này, cần dừng điều trị ngay lập tức.
Nếu bệnh lạc nội mạc tử cung xuất hiện trở lại trong thời gian điều trị thì nên ngưng sử dụng HRT. Nên loại trừ dấu hiệu các bệnh lý của tuyến sữa trước khi bắt đầu sử dụng HRT.
Hiện tượng sạm da thỉnh thoảng xẩy ra, thường gặp ở những bệnh nhân có tiền sử sạm da trong thai kỳ. Những phụ nữ có xu hướng bị sạm da nên tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím trong thời gian sử dụng HRT.
Các dấu hiệu sau đây cũng đã được báo cáo là có thể xảy ra hoặc trở nên xấu đi khi sử dụng HRT. Tuy nhiên, không cho thấy có sự liên quan rõ ràng đến việc sử dụng HRT, đối với những phụ nữ này cần được theo dõi chặt chẽ trong thời gian sử dụng HRT, bao gồm:
- Động kinh
- Các bệnh lành tính ở vú
- Hen phế quản
- Đau nửa đầu
- Porphyrin niệu
- Loãng xương
- Lupus ban đỏ hệ thống.
- Múa giật nhẹ.
Ở những phụ nữ mắc bệnh phù mạch di truyền, sử dụng estrogen ngoại sinh có rhể gây ra hoặc làm nặng hơn các triệu chứng của bệnh phù mạch.
Tác động tới khả năng lái xe và vận hành máy móc: Không có.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú (xem mục "Chống chỉ định"). Nếu có thai trong thời gian điều trị bằng thuốc phải ngừng điều trị ngay lập tức. Một lượng nhỏ drospirenone được bài xuất vào trong sữa mẹ.
Trong quá trình sử dụng liệu pháp thay thế hormone, nếu phát hiện ra bất kỳ một tình trạng nào nằm trong mục "Chống chỉ định" hoặc tình trạng liệt kê dưới đây thì nên ngừng thuốc ngay lập tức:
- Đau nửa đầu hoặc đau đầu thường xuyên hoặc dữ dội bất thường trong thời gian đầu điều trị, hoặc các tiền triệu của tắc mạch máu não.
- Tái phát bệnh vàng da hoặc bệnh ngứa do tắc mật, mà các tình trạng này đã xuất hiện trong lần mang thai đầu tiên hoặc khi sử dụng các steroid sinh dục trước đây.
- Có hoặc nghi ngờ có các triệu chứng của bệnh huyết khối.
Trong trường hợp các tình trạng hoặc yếu tố nguy cơ dưới đây mới xuất hiện hoặc nặng hơn thì nên phân tích lợi ích và rủi ro của từng người, cân nhắc tới sự cần thiết phải ngừng sử dụng liệu pháp:
* Nghẽn mạch huyết khối tĩnh mạch: Cả nghiên cứu ngẫu nhiên có kiểm soát và nghiên cứu dịch tễ học đều gợi ý mối liên quan đến nguy cơ làm nặng hơn bệnh nghẽn mạch huyết khối tĩnh mạch (VTE), ví dụ như huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc tắc mạch phổi.
* Huyết khối động mạch: Hai nghiên cứu lâm sàng lớn đã được tiến hành khi sử dụng kết hợp equine estrogen liên hợp (CEE) và medroxyprogesterone (MPA) cho thấy có nguy cơ nặng thêm bệnh mạch vành (CHD) trong năm đầu tiên sử dụng. Nghiên cứu lâm sàng khi sử dụng CEE đơn thuần cho thấy khả năng giảm tỉ lệ CHD ở phụ nữ trong độ tuổi từ 50-59, ngoài ra không có lợi ích tổng quát gì trong tổng số người tham gia thử nghiệm. Một kết quả khác thu được sau hai nghiên cứu lâm sàng với CEE đơn thuần và CEE khi dùng kết hợp với MPA cho thấy nguy cơ đột quỵ tăng từ 30% đến 40%. Những phát hiện này liệu có liên quan tới các sản phẩm HRT khác hoặc các đường dùng khác của liệu pháp hiện chưa được xác định.
* Các bệnh liên quan đến túi mật: Estrogen được cho là làm tăng nguy cơ hình thành sỏi mật. Một số phụ nữ có khả năng mắc các bệnh về túi mật trong thời gian sử dụng liệu pháp estrogen.
* Chứng mất trí: Có rất ít các bằng chứng từ các nghiên cứu lâm sàng với các chế phẩm có chứa CEE về khả năng làm tăng nguy cơ mất trí nếu bắt đầu sử dụng liệu pháp hormon ở những phụ nữ trên 65 tuổi. Theo một số nghiên cứu khác, nguy cơ này có thể giảm xuống nếu bắt đầu điều trị trong giai đoạn đầu của thời kỳ mãn kinh. Liệu những phát hiện này có liên quan tới các chế phẩm thay thế hormon khác hay không vẫn chưa xác định được.
Các khối u
Ung thư vú
Theo các nghiên cứu lâm sàng và kết quả thu được cho thấy nguy cơ ung thư vú được chẩn đoán tăng lên ở những phụ nữ đã sử dụng HRT trong vài năm. Đánh giá tổng quát mối liên hệ về nguy cơ đối với những trường hợp ung thu vú được chẩn đoán qua hơn 50 nghiên cứu dịch tễ học, phần lớn các nghiên cứu được ghi nhận ở yếu tố 1 và 2. Nguy cơ ung thư vú có liên quan đến việc dùng thuốc tăng lên theo thời gian điều trị và có thể thấp hơn hoặc không tăng nếu điều trị bằng các sản phẩm chỉ chứa estrogen.
Hai nghiên cứu lớn, ngẫu nhiên đối với CEE đơn thuần hoặc kết hợp với MPA cho thấy nguy cơ này tương ứng là khoảng 0,77 (95% Cl: 0,59-1,01) hoặc 1,24 (95% Cl: 1,01-1,54) sau 6 năm sử dụng HRT. Người ta cũng chưa xác định được liệu sự gia tăng nguy cơ này có xảy ra đối với các sản phẩm HRT khác hay không.
Nguy cơ tăng lên này sẽ mất đi trong một vài năm sau khi ngưng sử dụng HRT.
Hầu hết các nghiên cứu đều báo cáo rằng các khối u được xác định ở những bệnh nhân đang sử dụng hoặc vừa sử dụng HRT có tiên lượng tốt hơn nhiều so với những người không sử dụng liệu pháp này. Các số liệu về hiện tượng di căn ra ngoài tuyến vú chưa được kết luận.
HRT làm tăng mật độ của hình ảnh chụp X quang tuyến vú. Trong một vài trường hợp, điều này có thể làm ảnh hưởng đến sự phát hiện ung thư vú bằng phương pháp chụp X quang.
Ung thư nội mạc tử cung:
Sử dụng lâu dài estrogen đơn thuần có thể làm gia tăng nguy cơ tăng sinh nội mạc tử cung hoặc ung thư nội mạc tử cung. Các nghiên cứu cũng cho thấy rằng khi điều trị kết hợp với progestogen sẽ làm giảm nguy cơ này. Đồng thời sử dụng kết hợp với drospirenone sẽ ngăn chặn sự tăng sinh nội mạc tử cung gây ra bởi estrogen.
U gan
Trong một số hiếm trường hợp, xuất hiện u gan lành tính và hiếm hơn nữa là u gan ác tính cũng đã được báo cáo sau khi sử dụng các hợp chất hormone tương tự như các hợp chất có trong HRT. Trong một số ít trường hợp có thể xảy ra xuất huyết nặng trong ổ bụng đe doạ đến tính mạng của bệnh nhân.
Các triệu chứng khác:
Mối liên hệ giữa việc sử dụng HRT và bệnh tăng huyết áp trên lâm sàng chưa được xác định. Hiện tượng tăng nhẹ huyết áp ở những phụ nữ sử dụng HRT cũng đã được báo cáo, hiếm khi có biểu hiện trên lâm sàng. Tuy nhiên, nếu trong một số trường hợp các dấu hiệu tăng huyết áp trên lâm sàng kéo dài liên tục trong thời gian sử dụng HRT, cần cân nhắc đến việc ngừng sử dụng thuốc.
thuốc có thể gây hạ huyết áp ở những phụ nữ có huyết áp cao. Đối với những phụ nữ có huyết áp bình thường, sự thay đổi huyết áp hầu như không xảy ra.
Khả năng bài tiết kali có thể bị giới hạn đối với các bệnh nhân suy thận. Trong các nghiên cứu lâm sàng khi điều trị với drospirenone (DRSP) cho thấy không có ảnh hưởng tới nồng độ kali trong huyết tương ở những bệnh nhân suy thận nhẹ và vừa. Nguy cơ tăng kali huyết trên lý thuyết chỉ có thể được phát hiện ở những bệnh nhân đã từng điều trị kali huyết ở mức độ cao và những bệnh nhân đang sử dụng thêm thuốc bổ sung kali.
Các rối loạn chức năng gan không trầm trọng, bao gồm tăng bilirubin trong máu như hội chứng Dubin-Johnson hoặc hội chứng Rotor, cần phải theo dõi chặt chẽ và kiểm tra chức năng gan định kỳ. Trong trường hợp các chỉ số đánh giá chức năng gan tăng lên, nên ngưng sử dụng HRT.
Cần đặc biệt theo dõi những phụ nữ có chỉ số triglyceride tăng ở mức độ vừa phải. Việc sử dụng HRT đối những phụ nữ này có thể làm tăng thêm chỉ số triglyceride, có thể gây nên nguy cơ viêm tuỵ cấp.
Mặc dù sử dụng HRT có thể ảnh hưởng đến sự kháng lại insulin ở ngoại vi và độ dung nạp glucose nhìn chung không cần điều chỉnh liều dùng của các thuốc điều trị tiểu đường trong thời gian sử dụng HRT. Tuy nhiên những phụ nữ mắc bệnh tiểu đường cần được theo dõi cẩn thận trong thời gian sử dụng HRT.
Một số trường hợp nhất định có thể xuất hiện dấu hiệu kích thích hệ estrogenic trong thời gian sử dụng HRT như chảy máu tử cung bất thường. Chảy máu âm đạo bất thường thường xuyên hoặc dai dẳng trong quá trình điều trị có thể là một dấu hiệu để đánh giá tình trạng nội mạc tử cung.
Kích thước u xơ tử cung (u cơ) có thể tăng lên do sự ảnh hưởng của estrogen. Nếu xuất hiện dấu hiệu này, cần dừng điều trị ngay lập tức.
Nếu bệnh lạc nội mạc tử cung xuất hiện trở lại trong thời gian điều trị thì nên ngưng sử dụng HRT. Nên loại trừ dấu hiệu các bệnh lý của tuyến sữa trước khi bắt đầu sử dụng HRT.
Hiện tượng sạm da thỉnh thoảng xẩy ra, thường gặp ở những bệnh nhân có tiền sử sạm da trong thai kỳ. Những phụ nữ có xu hướng bị sạm da nên tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời hoặc tia cực tím trong thời gian sử dụng HRT.
Các dấu hiệu sau đây cũng đã được báo cáo là có thể xảy ra hoặc trở nên xấu đi khi sử dụng HRT. Tuy nhiên, không cho thấy có sự liên quan rõ ràng đến việc sử dụng HRT, đối với những phụ nữ này cần được theo dõi chặt chẽ trong thời gian sử dụng HRT, bao gồm:
- Động kinh
- Các bệnh lành tính ở vú
- Hen phế quản
- Đau nửa đầu
- Porphyrin niệu
- Loãng xương
- Lupus ban đỏ hệ thống.
- Múa giật nhẹ.
Ở những phụ nữ mắc bệnh phù mạch di truyền, sử dụng estrogen ngoại sinh có rhể gây ra hoặc làm nặng hơn các triệu chứng của bệnh phù mạch.
Tác động tới khả năng lái xe và vận hành máy móc: Không có.
Lúc có thai và lúc nuôi con bú
Không dùng thuốc cho phụ nữ có thai và cho con bú (xem mục "Chống chỉ định"). Nếu có thai trong thời gian điều trị bằng thuốc phải ngừng điều trị ngay lập tức. Một lượng nhỏ drospirenone được bài xuất vào trong sữa mẹ.
Thông tin thành phần Estradiol
Estradiol có chứa estrogen dưới dạng estradiol benzoate.
- Hấp thu: Estradiol được hấp thu tốt qua da, niêm mạc và đường tiêu hoá.
- Phân bố: thuốc được phân bố rộng rãi trong cơ thể và có nồng độ cao ở các cơ quan đích của hormon sinh dục. Trong máu có khoảng 60% estradiol liên kết với albumin, 38% kết hợp với globulin liên kết hormon sinh dục và 2% ở dạng tự do.
- Chuyển hoá: Estradiol chuyển hoá nhiều ở gan, chủ yếu chuyển thành estron, estriol và các dạng liên hợp như glucuronid hoặc sulfat. Estradiol cũng có quá trình tái tuần hoàn ruột gan thông qua liên hợp với sulfat và glucuronid ở gan, bài tiết các chất liên hợp ở mật vào ruột và tiếp theo là tái hấp thu vào máu.
- Thải trừ: Estradiol chủ yếu bài tiết vào nước tiểu và một lượng nhỏ vào phân, dưới 1% bài tiết nguyên dạng trong nước tiểu và 50-80% bài tiết dưới dạng liên hợp.
- Phân bố: thuốc được phân bố rộng rãi trong cơ thể và có nồng độ cao ở các cơ quan đích của hormon sinh dục. Trong máu có khoảng 60% estradiol liên kết với albumin, 38% kết hợp với globulin liên kết hormon sinh dục và 2% ở dạng tự do.
- Chuyển hoá: Estradiol chuyển hoá nhiều ở gan, chủ yếu chuyển thành estron, estriol và các dạng liên hợp như glucuronid hoặc sulfat. Estradiol cũng có quá trình tái tuần hoàn ruột gan thông qua liên hợp với sulfat và glucuronid ở gan, bài tiết các chất liên hợp ở mật vào ruột và tiếp theo là tái hấp thu vào máu.
- Thải trừ: Estradiol chủ yếu bài tiết vào nước tiểu và một lượng nhỏ vào phân, dưới 1% bài tiết nguyên dạng trong nước tiểu và 50-80% bài tiết dưới dạng liên hợp.
Trong giai đoạn mãn kinh, sự giảm và dần dần sau đó là mất hẳn estradiol do buồng trứng tiết ra có thể dẫn đến rối loạn quá trình điều nhiệt, sinh ra những cơn bốc hỏa kết hợp với rối loạn giấc ngủ và tăng tiết mồ hôi, teo niêm mạc đường sinh dục dẫn đến khô âm đạo, đau khi giao hợp và tiểu tiện khộng kìm được. Có một số dấu hiệu tuy không đặc hiệu nhưng cũng nằm trong hội chứng tiền mãn kinh là bệnh nhân kêu đau thắt ngực, đánh trống ngực, kích thích, bồn chồn, uể oải, giảm khả năng tập trung, hay quên, mất hứng thú tình dục và hay đau khớp và cơ. Dùng liệu pháp thay thế hormone (HRT) có thể làm đỡ các triệu chứng trên vì đã bù được sự thiếu estrogen ở phụ nữ sau mãn kinh.
Lượng hormone vừa đủ trong Estradiol làm giảm được xốp xương và làm chậm hoặc ngừng quá trình mất xương sau mãn kinh. HRT cũng có ảnh hưởng tốt trên hàm lượng collagen và độ dày của da, nhờ đó có thể làm chậm quá trình tạo nếp nhăn trên da.
HRT cũng làm thay đổi thành phần lipid máu: giảm cholesterol toàn phần và LDL-cholesterol nhưng lại tăng HDL-cholesterol và triglycerid. Tác dụng trên chuyển hóa có thể giảm bớt nếu thêm progesteron. Nói chung, tác dụng trên chuyển hóa của HRT có thể được xem là có lợi vì nhờ đó mà giảm được nguy cơ bệnh tim mạch ở phụ nữ sau mãn kinh.
Việc thêm progesteron vào liệu pháp thay thế estrogen như Estradiol trong vòng ít nhất là 10 ngày cho mỗi chu kỳ được khuyến cáo khi dùng cho phụ nữ còn tử cung nguyên vẹn. Biện pháp này làm giảm bớt nguy cơ tăng sản nội mạc tử cung và tránh được nguy cơ adenocarcinom ở những phụ nữ này. Việc thêm progesteron và HRT không ngăn cản hiệu quả của estrogen đối với những chỉ định đã nêu.
Lượng hormone vừa đủ trong Estradiol làm giảm được xốp xương và làm chậm hoặc ngừng quá trình mất xương sau mãn kinh. HRT cũng có ảnh hưởng tốt trên hàm lượng collagen và độ dày của da, nhờ đó có thể làm chậm quá trình tạo nếp nhăn trên da.
HRT cũng làm thay đổi thành phần lipid máu: giảm cholesterol toàn phần và LDL-cholesterol nhưng lại tăng HDL-cholesterol và triglycerid. Tác dụng trên chuyển hóa có thể giảm bớt nếu thêm progesteron. Nói chung, tác dụng trên chuyển hóa của HRT có thể được xem là có lợi vì nhờ đó mà giảm được nguy cơ bệnh tim mạch ở phụ nữ sau mãn kinh.
Việc thêm progesteron vào liệu pháp thay thế estrogen như Estradiol trong vòng ít nhất là 10 ngày cho mỗi chu kỳ được khuyến cáo khi dùng cho phụ nữ còn tử cung nguyên vẹn. Biện pháp này làm giảm bớt nguy cơ tăng sản nội mạc tử cung và tránh được nguy cơ adenocarcinom ở những phụ nữ này. Việc thêm progesteron và HRT không ngăn cản hiệu quả của estrogen đối với những chỉ định đã nêu.
Ðiều trị thay thế hormone (HRT) những trường hợp có dấu hiệu thiếu estrogen sau mãn kinh hoặc do bị cắt buồng trứng.
Phòng ngừa xốp xương sau mãn kinh.
Phòng ngừa xốp xương sau mãn kinh.
Thăm khám lâm sàng:
Phải biết rõ bệnh sử của bệnh nhân và thăm khám lâm sàng cẩn thận khi bắt đầu sử dụng liệu pháp HRT. Nắm vững chống chỉ định, cảnh báo và lặp lại điều này thường kỳ trong quá trình điều trị. Chu kỳ thăm khám và những việc cần làm khi thăm khám phải tuân theo qui định hướng dẫn thực hành điều trị và tùy thuộc từng bệnh nhân nhưng nói chung bao gồm kiểm tra các cơ quan vùng chậu, làm phết tế bào cổ tử cung định kỳ, khám bụng, ngực và đo huyết áp.
Người lớn, kể cả người cao tuổi:
Nếu bệnh nhân còn tử cung nguyên vẹn và vẫn còn kinh nguyệt, nên phối hợp Estradiol với progesterol trong vòng 5 ngày đầu của chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân có chu kỳ kinh nguyệt thất thường hoặc đã mãn kinh thì có thể bắt đầu bất kỳ lúc nào nhưng phải loại trừ khả năng có thai.
Liều lượng:
1 viên Estradiol, uống hàng ngày.
Cách dùng:
Mỗi vỉ dùng trong 28 ngày. Ðiều trị liên tục nghĩa là khi hết vỉ này phải uống tiếp ngay vỉ khác, không được gián đoạn.
Chế độ điều trị phối hợp:
Ở phụ nữ còn tử cung nguyên vẹn, nên điều trị phối hợp với một loại progestogen thích hợp trong vòng 10-14 ngày mỗi chu kỳ 4 tuần (chế độ HRT xen kẽ) hoặc uống đồng thời progestogen với estrogen (chế độ HRT phối hợp).
Ðể điều trị thành công, bác sĩ phải tìm cách giải thích để bệnh nhân hiểu cách dùng phối hợp và đảm bảo bệnh nhân tuân thủ chế độ điều trị đã khuyến cáo.
Cách uống thuốc: nuốt nguyên viên với một ít nước.
Bệnh nhân có thể uống thuốc vào bất kỳ giờ nào trong ngày nhưng khi đã chọn được giờ thích hợp thì phải cố định giờ uống hàng ngày trong suốt quá trình điều trị. Nếu quên uống vào giờ đã qui định thì uống ngay khi nhớ ra trong vòng 12-24 giờ. Khi điều trị bị gián đoạn lâu, có thể gặp chảy máu bất thường.
Phải biết rõ bệnh sử của bệnh nhân và thăm khám lâm sàng cẩn thận khi bắt đầu sử dụng liệu pháp HRT. Nắm vững chống chỉ định, cảnh báo và lặp lại điều này thường kỳ trong quá trình điều trị. Chu kỳ thăm khám và những việc cần làm khi thăm khám phải tuân theo qui định hướng dẫn thực hành điều trị và tùy thuộc từng bệnh nhân nhưng nói chung bao gồm kiểm tra các cơ quan vùng chậu, làm phết tế bào cổ tử cung định kỳ, khám bụng, ngực và đo huyết áp.
Người lớn, kể cả người cao tuổi:
Nếu bệnh nhân còn tử cung nguyên vẹn và vẫn còn kinh nguyệt, nên phối hợp Estradiol với progesterol trong vòng 5 ngày đầu của chu kỳ kinh nguyệt. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân có chu kỳ kinh nguyệt thất thường hoặc đã mãn kinh thì có thể bắt đầu bất kỳ lúc nào nhưng phải loại trừ khả năng có thai.
Liều lượng:
1 viên Estradiol, uống hàng ngày.
Cách dùng:
Mỗi vỉ dùng trong 28 ngày. Ðiều trị liên tục nghĩa là khi hết vỉ này phải uống tiếp ngay vỉ khác, không được gián đoạn.
Chế độ điều trị phối hợp:
Ở phụ nữ còn tử cung nguyên vẹn, nên điều trị phối hợp với một loại progestogen thích hợp trong vòng 10-14 ngày mỗi chu kỳ 4 tuần (chế độ HRT xen kẽ) hoặc uống đồng thời progestogen với estrogen (chế độ HRT phối hợp).
Ðể điều trị thành công, bác sĩ phải tìm cách giải thích để bệnh nhân hiểu cách dùng phối hợp và đảm bảo bệnh nhân tuân thủ chế độ điều trị đã khuyến cáo.
Cách uống thuốc: nuốt nguyên viên với một ít nước.
Bệnh nhân có thể uống thuốc vào bất kỳ giờ nào trong ngày nhưng khi đã chọn được giờ thích hợp thì phải cố định giờ uống hàng ngày trong suốt quá trình điều trị. Nếu quên uống vào giờ đã qui định thì uống ngay khi nhớ ra trong vòng 12-24 giờ. Khi điều trị bị gián đoạn lâu, có thể gặp chảy máu bất thường.
Chế độ HRT không được áp dụng nếu gặp một trong những điều kiện dưới đây. Phải ngưng điều trị nếu trong quá trình dùng thuốc gặp bất kỳ một hiện tượng nào trong những hiện tượng sau:
- Có thai và cho con bú.
- Chảy máu âm đạo chưa được chẩn đoán.
- Ung thư vú đã xác định hoặc nghi ngờ.
- Có những yếu tố của tiền ung thư hoặc nghi ngờ ung thư do ảnh hưởng của steroid sinh dục.
- Có tiền sử hoặc hiện tại bị u gan (lành tính hoặc ác tính).
- Mắc bệnh gan trầm trọng.
- Các rối loạn huyết khối tĩnh mạch sâu thể hoạt động, huyết khối tắc mạch hoặc có tiền sử những bệnh này.
- Tăng triglycerid trầm trọng.
- Tiền sử quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của Estradiol.
- Có thai và cho con bú.
- Chảy máu âm đạo chưa được chẩn đoán.
- Ung thư vú đã xác định hoặc nghi ngờ.
- Có những yếu tố của tiền ung thư hoặc nghi ngờ ung thư do ảnh hưởng của steroid sinh dục.
- Có tiền sử hoặc hiện tại bị u gan (lành tính hoặc ác tính).
- Mắc bệnh gan trầm trọng.
- Các rối loạn huyết khối tĩnh mạch sâu thể hoạt động, huyết khối tắc mạch hoặc có tiền sử những bệnh này.
- Tăng triglycerid trầm trọng.
- Tiền sử quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của Estradiol.
Bên cạnh những tác dụng phụ đã nêu ở mục "Chú ý đề phòng và Thận trọng lúc dùng", người dùng cũng có thể gặp phải những vấn đề sau đây với HRT dạng uống:
- Những rối loạn ở hệ sinh sản và vú : thay đổi kiểu chảy máu âm đạo, có thể chảy máu bất thường, chảy thành dòng, nhiều hoặc nhỏ giọt (hiện tượng này thường giảm dần khi điều trị tiếp tục), mất kinh, thay đổi tiết ở âm đạo, các triệu chứng giống ở thời kỳ tiền mãn kinh, ngực đau, căng hoặc to ra.
- Rối loạn tiêu hóa: chán ăn, đầy bụng, buồn nôn, nôn, đau bụng.
- Các rối loạn ở da và tổ chức dưới da: ban đỏ, các rối loạn khác bao gồm ngứa, eczema, mề đay, trứng cá, rậm lông, rụng tóc, hồng ban dạng nốt.
- Rối loạn hệ thần kinh: đau đầu, đau nửa đầu, trầm uất, lo lắng, trầm cảm, mệt.
Các triệu chứng khác: đánh trống ngực, phù, chuột rút, thay đổi thể trọng, tăng thèm ăn, thay đổi hưng phấn tình dục, rối loạn thị giác, khó chịu khi mang kính sát tròng, phản ứng tăng mẫn cảm.
- Những rối loạn ở hệ sinh sản và vú : thay đổi kiểu chảy máu âm đạo, có thể chảy máu bất thường, chảy thành dòng, nhiều hoặc nhỏ giọt (hiện tượng này thường giảm dần khi điều trị tiếp tục), mất kinh, thay đổi tiết ở âm đạo, các triệu chứng giống ở thời kỳ tiền mãn kinh, ngực đau, căng hoặc to ra.
- Rối loạn tiêu hóa: chán ăn, đầy bụng, buồn nôn, nôn, đau bụng.
- Các rối loạn ở da và tổ chức dưới da: ban đỏ, các rối loạn khác bao gồm ngứa, eczema, mề đay, trứng cá, rậm lông, rụng tóc, hồng ban dạng nốt.
- Rối loạn hệ thần kinh: đau đầu, đau nửa đầu, trầm uất, lo lắng, trầm cảm, mệt.
Các triệu chứng khác: đánh trống ngực, phù, chuột rút, thay đổi thể trọng, tăng thèm ăn, thay đổi hưng phấn tình dục, rối loạn thị giác, khó chịu khi mang kính sát tròng, phản ứng tăng mẫn cảm.
Thông tin thành phần Drospirenon
Drospirenone được dùng trong việc điều trị, kiểm soát, phòng chống, & cải thiện những bệnh, hội chứng, và triệu chứng sau:
Ngừa thai
Khó chịu trước kinh nguyệt
Rối loạn tiền kinh nguyệt bồn chồn
Trầm cảm nặng
Khó chịu trước kinh nguyệt
Căng thẳng trước kỳ kinh nguyệt
Loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh
Mụn vừa phải
Liệu pháp thay thế hormone sau mãn kinh
Ngừa thai
Khó chịu trước kinh nguyệt
Rối loạn tiền kinh nguyệt bồn chồn
Trầm cảm nặng
Khó chịu trước kinh nguyệt
Căng thẳng trước kỳ kinh nguyệt
Loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh
Mụn vừa phải
Liệu pháp thay thế hormone sau mãn kinh
Drospirenone được chỉ định cho việc điều trị Ngừa thai, Khó chịu trước kinh nguyệt, Rối loạn tiền kinh nguyệt bồn chồn, Trầm cảm nặng, Khó chịu trước kinh nguyệt, Căng thẳng trước kỳ kinh nguyệt, Loãng xương ở phụ nữ sau mãn kinh, Mụn vừa phải, Liệu pháp thay thế hormone sau mãn kinh và các bệnh chứng khác.
Nhạy cảm với Drospirenone là chống chỉ định. Ngoài ra, Drospirenone không nên được dùng nếu bạn có những bệnh chứng sau:
Bệnh gan
Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm
Bệnh tiểu đường
Bệnh túi mật
Lịch sử của bệnh ung thư vú
Nằm liệt giường hoặc bất động trong một thời gian dài
Nồng độ chất béo trong máu
Phiền muộn
Sắp phải trải qua phẫu thuật
Viêm loét đại tràng
Bệnh gan
Bệnh thiếu máu hồng cầu hình liềm
Bệnh tiểu đường
Bệnh túi mật
Lịch sử của bệnh ung thư vú
Nằm liệt giường hoặc bất động trong một thời gian dài
Nồng độ chất béo trong máu
Phiền muộn
Sắp phải trải qua phẫu thuật
Viêm loét đại tràng
Ói mửa
Đau bụng
ĐầY hơi
Bệnh tiêu chảy
Táo bón
Sưng nướu răng
Ổ Cắm khô
Đau bụng
ĐầY hơi
Bệnh tiêu chảy
Táo bón
Sưng nướu răng
Ổ Cắm khô
Lưu ý: Dùng thuốc theo chỉ định của Bác sĩ